Hội chứng rách cơ ngực lớn – Dấu hiệu, triệu chứng, cách điều trị hiệu quả

  Hội chứng lâm sàng

Cơ ngực lớn dễ bị chấn thương trong phạm vi từ các vết rách rách nhỏ chỉ thấy được dưới kính hiển vi tại phần cơ sau khi gắng sức nặng đến rách một phần cơ có thể nhìn thấy bằng mắt hoặc, trong các trường hợp tối đa, vết rách hoàn toàn bề dày của cơ thể kèm với sự hình thành khối tụ máu và biến dạng mất thẩm mỹ.

Ngoài ra gân cơ ngực lớn có thể bị đứt tại điểm bám tận ở mào củ lớn của xương cánh tay. Một cơ rộng, dày, hình nan quạt, cơ ngực xuất từ mặt trước của đầu gần xương bả vai, mặt trước xương ức, gắn với sụn sườn từ 2 đến 6 và đôi khi sụn sườn 7, và dải cân của cơ chéo bụng ngoài. Các sợi cơ đó che lấp, với một số chạy lên trên và sang bên, tất cả kết thúc trong một gân rộng sẹt bám vào mào củ lớn xương cánh tay.

Biểu hiện lâm sàng của hội chứng rách cơ ngực lớn đa dạng bởi các nguyên nhân khác nhau, với mức độ trầm trọng của các triệu chứng tỉ lệ trực tiếp với số lượng phần bị chấn thương, cơ, gân hoặc cả hai. Các bệnh nhân có hội chứng rách cơ ngực lớn có khởi đầu cấp tính đau thành ngực trước sau chấn thương, trong khi thực hiện các hoạt động như đẩy tạ hoặc leo núi.

Mức độ đau tỉ lệ với số lượng chấn thương mắc phải. Một bệnh nhân có hội chứng rách cơ ngực lớn cũng có thể biểu hiện các mức độ hạn chế khác nhau khi xoay trong xương cánh tay. Nếu bị rách hoàn toàn cơ hoặc đứt gân xảy ra, thành ngực trước phồng lên cấp tính với sự co cơ tương tự Popeye’s bulge (phồng bắp tay trong thủy thủ Popeye sau khi ăn rau chân vịt) của dấu hiệu Ludington cùng với đứt gân cơ nhị đầu. Nếu đứt gân không được điều trị phù hợp, sự co cơ và canxi hóa thêm nữa sẽ xảy ra, nặng hơn nữa là khiếm khuyết chức năng và biến dạng về mặt thẩm mỹ.

  Dấu hiệu và triệu chứng

Một bệnh nhân với hội chứng rách cơ ngực lớn thường khởi đầu đau cấp ở trước ngực sau chấn thương cơ, gân cơ ngực lớn hoặc cả hai. Nếu chấn thương đáng kể, có thể thấy khối tụ máu hình thành một cách rõ ràng. Nếu đứt gân tại vị trí bám tận trong xương cánh tay, bệnh nhân thường thấy có bầm máu xuất hiện nhiều tại cánh tay và thành ngực trước tỉ lệ với số lượng vết thương. Xoay trong chủ động xương cánh tay chống đối lại lực cản của người khám yếu.

Nếu rách cơ hoặc đứt gân đáng kể xảy ra, bệnh nhân không thể chạm tay ra sau. Như đã đề cập trước đó, nếu rách cơ hoặc đứt gân hoàn toàn xảy ra, thành ngực trước phồng với sự co cơ ngực lớn do không bị sự chống lại của vết rách đầu xa của cơ, gân cơ hoặc cả hai. Mặc dù không chẩn đoán thể khẳng định chính xác hội chứng rách cơ ngực lớn, các dấu hiệu lâm sàng này gợi ý người khám chỉ định chụp cộng hưởng từ gần xương cánh tay, vai và thành ngực trước phần bị ảnh hưởng để làm rõ và khẳng định chẩn đoán.

  Cận lâm sàng

MRI vai, đầu gần xương cánh tay và thành ngực cung cấp thông tin tốt nhất có liên quan các quá trình bệnh lý của các vùng giải phẫu đó. MRI có độ chính xác cao và giúp xác định các bất thường mà có thể cần phải phẫu thuật phục hồi khẩn cấp, ví dụ rách rộng hoàn toàn cơ, đứt gân hoặc cả hai. MRI vị trí bị ảnh hưởng cũng giúp thầy thuốc lâm sàng loại trừ các tình trạng bệnh lý không nghi ngờ mà có thể gây hại cho bệnh nhân như các khối u nguyên phát và ác tính.

Trong trường hợp bệnh nhân không thể chụp được MRI, ví dụ bệnh nhân với máy tạo nhịp, chụp cắt lớp vi tính là lựa chọn hợp lý tiếp theo. Xạ hình xương và chụp X – quang thường quy là một chỉ định nếu gãy xương hoặc các bất thường tại xương như bệnh lý ác tính của đầu gần xương cánh tay, vai, hoặc thành ngực trước nên được xem xét trong chẩn đoán phân biệt. Các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm gồm công thức máu, máu lắng, và các xét nghiệm sinh hóa tự động nên được thực hiện nếu đang nghi ngờ hội chứng rách cơ ngực lớn.

 

Rách toàn bộ cơ ngực lớn kèm theo hình thành khối máu tụ và biến dạng thành ngực.

 

  Chẩn đoán phân biệt

Hội chứng rách cơ ngực lớn là một chẩn đoán khi phối hợp tiền sử, thăm khám lâm sàng, X – quang và MRI. Các hội chứng đau mà có thể giống với hội chứng rách cơ ngực lớn bao gồm các chấn thương đến cơ ngực bé, dưới xương bả vai, hoặc các cơ lưng to và các tổn thương phía dưới dây chằng ổ chảo cánh tay. Trật khớp của cán ức từ phần thân xương ức sau các chấn thương do tăng tốc/giảm tốc cũng có thể làm lu mờ chẩn đoán.

Các gãy xương của tất cả xương chỗ nguyên ủy của các cơ ngực lớn (ví dụ xương ức, các xương sườn, các gãy xương tại cổ giải phẫu và phẫu thuật của xương cánh tay) có thể giả biểu hiện lâm sàng của hội chứng rách cơ ngực lớn. Các khối u nguyên phát và ác tính ở vai, xương cánh tay và thành ngực trước và các cấu trúc xung quanh nó có thể có và nên được coi như là một phần của chẩn đoán phân biệt ở các bệnh nhân biểu hiện các triệu chứng gợi ý hội chứng rách cơ ngực lớn.

A, hình MRI xung gradient – recalled echo (GRE) mặt phẳng axial ở bệnh nhân rách điểm bám gân cơ ngực lớn ở cánh tay trái cho thấy sự bất đối xứng cơ ngực lớn 2 bên và mất liên tục của cơ ngực lớn khi đi qua nách (mũi tên). B, hình ảnh mặt cắt axial xung GRE ở bệnh nhân khác bị co rút toàn bộ cơ ngực lớn do rách toàn bộ điểm bám gân (mũi tên)
Vận động xoay trong chủ động cánh tay có thể yếu, nếu dấu hiệu rách cơ hoặc đứt gân xuất hiện , bệnh nhân không thể tự đưa tay của họ ra sau lưng.

  Điều trị

Mặc dù đau và khiếm khuyết chức năng gặp ở vết rách cơ ngực lớn nhẹ, có thể điều trị bảo tồn phối hợp NSAIDs hoặc ức chế COX-2 với vật lý trị liệu nhẹ nhàng. Với các vết rách rộng hơn hoặc đứt gân cơ ngực lớn cần phẫu thuật ngay để phục hồi tránh biến dạng về mặt thẩm mỹ và khiếm khuyết chức năng.

  Biến chứng và những sai lầm thường gặp

Sai lầm trong chẩn đoán rách cơ ngực lớn với các hội chứng khác có thể đặt bệnh nhân vào nguy cơ có thể phải chịu những tổn thương vai tiến triển dẫn tới bỏ sót các quá trình bệnh lý có thể làm hại bệnh nhân, ví dụ khối u Pancoast hoặc các khối u nguyên phát hoặc ác tính ở vai, xương cánh tay hoặc thành ngực trước.

MRI được chỉ định ở tất cả các bệnh nhân được nghĩ đến hội chứng rách cơ ngực lớn, và điều trị can thiệp phẫu thuật để sữa chữa nguyên nhân của các triệu chứng được chỉ định cấp bách, để tránh các biến dạng thẩm mỹ và khiếm khuyết chức năng không hồi phục.

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *