Vận động mô mềm nhờ dụng cụ (IASTM) là một phương pháp điều trị tương đối mới. Tuy nhiên, tư xưa thì các nhà y học đã sử dụng các phương pháp điều trị tương tự, trong đó nổi tiếng nhất là Gua Sha – bắt nguồn từ Trung Quốc. Tìm Tptherapy hiểu về phương pháp IASTM qua bài viết sau ngay.
Phương pháp IASTM hiện đại mà Tptherapy áp dụng được phát minh ở Mỹ vào giữa những năm 1990. Các công cụ sử dụng được một nhà vật lý trị liệu người Mỹ thiết kế, công cụ có nhiều cạnh và đường cong khác nhau, cho phép bạn điều trị toàn bộ cơ thể.
1. Định nghĩa và cơ chế của IASTM
“IASTM là kĩ thuật vận động mô mềm cho phép các nhà vật lý trị liệu phát hiện và điều trị các hạn chế cân bằng cơ (myofascial restriction), từ đó giúp cải thiện tầm vận động và giảm đau”.
IASTM tạo ra một số cử động trị liệu đối với tổn thương tại chỗ, khởi phát quá trình viêm, mang các chất tiền viêm đến vùng này. Từ đó giúp loại bỏ các tế bào tổn thương và thay thế chúng bằng những tế bào lành, do đó giúp việc liền vết thương diễn ra nhanh hơn.
Khi kĩ thuật này phát triển, TriggerPoint Việt Nam đã tìm hiểu được thêm một số cơ chế tiềm năng khác của phương pháp này. Trong thực hành lâm sàng, kĩ thuật này cho đáp ứng khá nhanh (từ 2 – 5 phút) phụ thuộc vào kích thước của vùng. Hệ thần kinh có thể làm thay đổi sức căng mô (tissue tension) trong khung thời gian trên. Việc khôi phục chức năng mô mềm bằng cơ học đôi khi quá mạnh và gây nên chấn thương mô không cần thiết. Kích thích cơ chế thần kinh giúp chúng ta tốn ít lực hơn, mà không gây chấn thương mô.
2. Tác động cơ học của IASTM
Một trong những tác động của IASTM là nổi những ban đỏ và sự tăng tần hoàn nông như ở Gua Sha. Mặc dù Gua Sha dùng nhiều lực hơn IASTM hiện đại.
Loghmani và Warren nhận thấy khi thực hiện IASTM ma sát chéo ở dây chằng bên trong khớp gối (MCL) trên động vật thí nghiệm. Họ nhận thấy có sự tăng tưới máu ở mô tại chỗ trong 1 ngày và 1 tuần sau điều trị. Điều này gợi ý rằng nó có thể có một vài tác động vào việc cải thiện tuần hoàn cục bộ. Từ đó làm tăng dưỡng chất và nguyên bào sợi tới vùng làm lắng đọng collagen và tăng khả năng liền vết thương.
Thật vậy, các nghiên cứu chỉ ra rằng IASTM gây tăng sinh nguyên bào sợi trong vùng được điều trị ở chấn thương MCL cấp và bệnh gân Achilles. Một điều thú vị là, trong nghiên cứu của Loghmani và Warren, họ dùng phẫu thuật để làm tổn thương cả hai MCL của động vật thí nghiệm.
Họ điều trị một MCL bằng IASTM với 3 lần/1 tuần trong 4 tuần. Trong khi bên còn lại đóng vai trò làm nhóm chứng không được điều trị. Các nhà nghiên cứu nhận thấy vào tuần 4, bên được điều trị khỏe hơn 43,1%, cứng hơn 39,7% và có thể hấp thụ thêm 57,1% năng lượng trước khi hỏng (failure). Họ cũng nhận thấy rằng bó sợi của bên được điều trị có tổ chức và căn chỉnh tốt hơn bên không được điều trị. Sau 12 tuần, không có sự khác biệt đáng kể giữa hai bên. Điều này gợi ý rằng IASTM cho phép tổn thương được điều trị sớm hơn – có thể đẩy nhanh việc đưa hoạt động cơ thể trở lại bình thường với giảm nguy cơ tái chấn thương.
Cơ chế nén cơ học của IASTM tập trung áp dụng lực vào mô theo cách mà tay không thể thực hiện và hoạt động tế bào sợi có thể dẫn đến sản sinh “yếu tố tăng trưởng cơ học” của mô – kích hoạt tế bào cơ, với sự thay đổi đến cơ cũng như mô cân.
3. Tranh cãi quanh IASTM
Một số lý thuyết cho rằng IASTM có thể gây căng cơ học (mechanical tension) cùng ma sát. Và sự tăng nhiệt độ có thể gây đứt liên kết chéo collagen ở mức độ vi thể.
Ở một nghiên cứu khác, Langevin và Stecco nhận thấy khi có cơn đau, các lớp gân bài tiết axit hyaluronic. Làm gân trở nên dày hơn và làm giảm sự trượt tối ưu giữa các lớp mô này. Phương pháp Fascial ManipulationTM sử dụng áp lực cơ học, sự di chuyển và ma sát làm tăng nhiệt độ mô để “phá vỡ” chuỗi axit hyaluronic. Cuối cùng làm các lớp mô có thể trượt lên nhau như bình thường. Vật lý trị liệu còn có thể thay đổi độ nhớt, độ đàn hồi (viscoelastic), đặc tính hấp thu chấn động và đặc tính hấp thu năng lượng.
Jean Gimbertau đề xuất rằng cân hoạt động như một ống đầy dịch – thay đổi tích cực đối với áp lực tác động lên chúng. Những ống đầy dịch này cho phép kéo dài mô như một cấu trúc dạng lưới năng động, thay vì các lớp trượt lên nhau. Do đó, áp lực cơ học có thể gây ảnh hưởng tức thì lên mô.
Chúng ta biết rằng cả chấn thương cấp tính và áp lực kéo dài lên mô đều có thể gây thắt chặt mô (tissue tightening). Findlay và cộng sự đề cập rằng viêm cấp tính có thể làm cân bị căng cứng và mất tính mềm dẻo (pliability). Do đó, duy trì tư thế qua thời gian dài hơn có thể ngăn ngừa chuyển động kéo cân. Ngoài ra, kéo căng và đè ép cân có thể gây đau ở các cấu trúc như mạch máu và dây thần kinh trong tầm vận động mà trước đó không đau.
IASTM hay các kĩ thuật vật lý trị liệu khác giúp giải phóng sự đè ép, làm giảm áp lực ở những vùng này và khôi phục sự lưu thông của máu.
Tuy nhiên, tác động cơ học không xảy ra đơn độc. Việc thực hiện IASTM cho cả tình trạng cấp và mạn tính có thể đẩy nhanh sự liền vết thương, một số tác động từ điều này sẽ kéo dài hơn, có thể 24 – 72 giờ. Trên lâm sàng, chúng tôi quan sát thấy có những bệnh nhân thay đổi trong vòng vài phút kể từ khi bắt đầu điều trị. Cần thêm những nghiên cứu khác để hiểu hơn về tác động cơ học của IASTM.
4. Tác động thần kinh của IASTM
Khi áp dụng IASTM vào da và cân dưới da, kích thích cơ học sẽ ức chế thụ thể đau và giải phóng các opiod (chất giảm đau tự nhiên của cơ thể) thông qua con đường ức chế đi xuống từ não và tủy sống. Tuy nhiên, bạn không cần công cụ thép để có được tác động này. Vì vậy, chúng ta sẽ không thảo luận sâu, chỉ lưu ý rằng công cụ có một số tác động giảm đau.
Thay vào đó, chúng ta tập trung vào tương tác trực tiếp của công cụ với da và mô bên dưới. Da và cân được chi phối bởi nhiều sợi thần kinh cảm giác, đồng thời, cân chứa nhiều thụ thể cơ học hơn mô cơ đến 10 lần. Bằng chứng này làm các nhà nghiên cứu thay đổi suy nghĩ về vai trò của da và cân trong cảm giác bản thể và chức năng vận động.
Thật vậy, kết nối với hệ thần kinh rất quan trọng vì nó cho phép mạng lưới cân thay đổi và linh hoạt. Schleip nhận thấy rằng: Sau khi loại bỏ kết nối thần kinh, các mô không còn đáp ứng như bình thường. Điều này hỗ trợ cho lập luận rằng hệ thần kinh đầy đủ chức năng cần thiết cho hệ cân – cơ có thể hoạt động tối ưu. Đến nay, các nhà nghiên cứu đã xác định được 4 loại thụ thể cơ học khác nhau ở hệ cân, chúng là tiểu thể Pacini, tiểu thể Paciniform, cơ quan Ruffini và thụ thể kẽ.
80% số sợi cảm giác là thụ thể kẽ, các loại khác chiếm 20%. Hơn nữa, 50% số thụ thể kẽ đáp ứng với xúc chạm nhẹ (ví dụ như vuốt ngón tay lên da), đồng thời những thụ thể này còn có vai trò như thụ thể đau. Khi bị kích ức hóa học cục bộ, những sợi này có thể tăng số lượng, làm những thụ thể này tăng phóng điện (tạo ra xung thần kinh). Điều này có thể là lý do gây cảm giác hóa ngoại vi khi không có cấu trúc nơ-ron nào bị kích ứng cơ học (ví dụ như chèn ép rễ). Những thụ thể kẽ này, cùng với phần còn lại của thụ thể cơ học, đáp ứng với sức căng và áp suất cơ học. Điều này có vai trò quan trọng trong nguyên lý của IASTM.
Tóm lại, các tác động mà chúng tôi quan sát là kết quả của sự kích thích hệ thần kinh. Vuốt lưng chậm sẽ ức chế hệ vận động gamma, gây giảm trương lực cơ. Kích thích các thụ thể cơ học còn gây đáp ứng phản xạ – làm giảm trương lực cơ tổng thể (overall muscle tonus) và gây thư giãn toàn cơ thể cũng như tác động lên vùng cục bộ.
5. Đánh giá
Sử dụng công cụ đánh giá hạn chế và trương lực mô mềm giúp chúng ta cảm nhận rõ hơn, thông qua những rung động và cảm nhận từ công cụ. Dưới đây là một số cách giúp bạn có thể đánh giá tốt nhất:
- Luôn bôi trơn da để công cụ có thể trượt lên đó dễ dàng và gây kích ứng tối thiểu.
- Đảm bảo rằng da không bị xước hay có nốt ruồi trên bề mặt
- Trước tiên, dùng cạnh sắc của công cụ để khảo sát (scan) vùng nông
- Góc tối ưu của công cụ là từ 20 – 300
- Khảo sát theo chiều dọc, từ trên xuống dưới hoặc từ dưới lên trên
- Một số mô hình chỉ làm theo một hướng, ví dụ như vùng cổ trên – theo hướng từ ngoài vào trong.
- Rối loạn chức năng mô mềm thường biểu hiện theo 2 cách: tăng trương lực và hạn chế.
Sự khác biệt giữa tăng trương lực và hạn chế trong đánh giá và điều trị rối loạn chức năng mô mềm:
5.1 Hạn chế
- Cảm thấy như có sạn (grit) và cảm nhận được rung động khi dùng công cụ
- Một số dạng hạn chế ở những vùng trọng tâm
- Một số mô hình hạn chế ở khắp mô hình
- Điều trị bằng vuốt nhanh (quick stroke) theo một hướng cho đến khi được giải phóng
- Tiến hành theo chiều sâu và có thể chuyển sang mặt tối (dull side) của công cụ.
5.2 Tăng trương lực
- Với tăng trương lực, đưa dụng cụ thật chậm khi cảm nhận được
- Trước tiên, điều trị bằng mặt tối (mặt B) của công cụ
- Bắt đầu bằng ấn nhẹ và vuốt chậm theo một hướng
6. Điều trị
Khi điều trị, cần nhớ hai điều quan trọng. Không nên điều trị quá mức ở một vùng, và trong hầu hết các trường hợp, chỉ cần ấn nhẹ. Thông thường, chúng ta chỉ cần 1-2 phút cho mỗi vùng. Tuy nhiên có thể điều trị tới 5 phút để giảm đau và cải thiện tầm vận động tốt hơn.
Khi bắt đầu điều trị, hãy chắc chắn rằng mô ở trạng thái trung tính. Chỉ khi không dung nạp, bạn sẽ điều trị ở trạng thái trùng mô. Tiến trình điều trị có thể thực hiện bằng cách làm căng thêm da/cân. Chấm xuất huyết có thể xảy ra trong quá trình điều trị bằng IASTM, tuy nhiên số lượng thường ít và biến mất trong vòng 1-2 ngày.
Bạn có thể điều trị bệnh nhân ở tư thế tĩnh như ngồi hay nằm, hoặc tư thế động qua cử động đau (chức năng hoặc mất chức năng) theo nhiều cách khác nhau:
Ví dụ:
- Bệnh nhân bị hạn chế động tác xoay vai vào trong, bạn có thể bắt đầu điều trị vai sau hoặc vai trước ngoài ở tư thế trung tính, tiến đến xoay trong toàn bộ.
- Bệnh nhân bị hạn chế vận động thần kinh giữa. Bạn có thể đặt cánh tay trên tải thần kinh trung bình, sau đó điều trị mô hình cánh tay trên trong và cẳng tay trước.
Tự hào khi là đơn vị đầu tiên áp dụng và đưa phương pháp vận động mô mềm bằng dụng cụ vào điều trị cho các khách hàng. Đồng thời nhận được vô số nhận xét và bình luận tích cực.
Nếu đang gặp các vấn đề về cơ xương khớp, liên hệ Tptherapy ngay để được tư vấn. Đặc biệt, chương trình siêu âm và thăm khám miễn phí đang siêu HOT, liên hệ ngay nhé!!!